Truy cập nội dung luôn
Đăng nhập

KỶ NIỆM 120 NĂM NGÀY SINH ĐỒNG CHÍ TRẦN PHÚ – TỔNG BÍ THƯ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG (01/5/1904 - 01/5/2024)

2024-04-22 15:09:00.0

I. THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ TRẦN PHÚ

Đồng chí Trần Phú sinh ngày 01/5/1904, quê ở xã Việt Yên, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh - một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, cách mạng. Thân sinh của đồng chí là cụ ông Trần Văn Phổ và cụ bà Hoàng Thị Cát.

Cụ Trần Văn Phổ là một nhà nho nghèo, yêu nước. Sau khi đậu giải Nguyên (đỗ đầu kỳ thi Hương) vào năm 1848, Cụ được cử làm giáo thụ tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1901, Cụ vào dạy học tại Tuy An, tỉnh Phú Yên. Năm 1907, Cụ được bổ nhiệm làm Tri huyện huyện Đức Phổ. Dù dạy học hay làm quan, Cụ luôn là người chính trực, thanh liêm, yêu nước, thương dân. Khi thực dân Pháp tăng cường bóc lột tại Việt Nam, nhân dân đứng lên phản kháng, triều đình Nhà Nguyễn đã thẳng tay đàn áp nhân dân và bắt Cụ phải thi hành mệnh lệnh, nhưng Cụ đã đứng về phía nhân dân. Vì quá uất ức trước sự bạo tàn của thực dân, phong kiến, không chịu sự đe dọa, bức bách của kẻ thù, Cụ đã quyên sinh để phản kháng chế độ hà khắc lúc bấy giờ.

Cụ bà Hoàng Thị Cát - thân mẫu của đồng chí Trần Phú là người hiền hậu, tần tảo chăm lo chồng, con. Sau khi chồng mất, gia đình cụ Hoàng Thị Cát lâm vào cảnh khốn khó, Cụ lâm bệnh nặng, rồi qua đời vào đầu năm 1910, khi đồng chí Trần Phú mới 6 tuổi.

Mẹ mất, đồng chí Trần Phú về Quảng Trị ở với anh, chị ruột. Năm 1914, đồng chí vào Huế học tại Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, tiếp đó học tại Trường Quốc học Huế.

Năm 1922, sau thi đỗ đầu kỳ thi Thành Chung do Trường Quốc học Huế tổ chức, đồng chí Trần Phú được bổ nhiệm dạy học tại Trường Tiểu học Cao Xuân Dục, Thành phố Vinh. Trong quá trình dạy học, đồng chí có dịp gần gũi với công nhân và nông dân, nhiệt tình truyền đạt kiến thức văn hoá, giác ngộ tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng cho những người lao động.

Năm 1925, đồng chí Trần Phú tham gia sáng lập và hoạt động tích cực trong tổ chức Hội Phục Việt. Khi bị bọn mật thám phát hiện, những người lãnh đạo Hội quyết định đổi tên thành Hội Hưng Nam, sau đó lại đổi tên thành Việt Nam Cách mạng Đảng, rồi Tân Việt Cách mạng Đảng. Trong những ngày sôi động đó, đồng chí Trần Phú thôi nghề dạy học, tập trung cho hoạt động cách mạng.

Tháng 9/1925, đồng chí Trần Phú được Hội Phục Việt cử sang Lào để vận động cách mạng. Thời gian hoạt động ở Lào, đồng chí đã đi sâu tìm hiểu đời sống và nguyện vọng của công nhân, nông dân, giác ngộ cách mạng cho họ và bước đầu tự rèn luyện lập trường, ý thức giai cấp công nhân cho mình.

Tháng 6/1925, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Được tin, Ban lãnh đạo Hội Hưng Nam cử đồng chí Trần Phú sang gặp các đồng chí trong tổ chức này để đề nghị hợp nhất hai tổ chức. Trong thời gian này, đồng chí Trần Phú được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt tên là Lý Quý, được huấn luyện về lý luận chính trị và kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, vào Cộng sản Đoàn và được cử về nước hoạt động.

Tháng 12/1926, đồng chí Trần Phú về đến thành phố Vinh. Sau khi báo cáo việc Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên dự định hợp nhất các tổ chức cách mạng trong và ngoài nước, đồng chí truyền đạt lại những lời dạy của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, giúp các đồng chí trong nước cải tổ Hội Việt Nam cách mạng đồng chí theo đường lối và tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ở trong nước một thời gian, trước sự truy nã gắt gao của kẻ thù, đồng chí lại được cử sang Quảng Châu làm việc tại cơ quan Tổng bộ Thanh niên.

Mùa xuân năm 1927, trước yêu cầu cấp thiết của việc đào tạo cán bộ cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử đồng chí Trần Phú sang học tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mát-xcơ-va. Lúc ấy, đồng chí mang tên là Li-ki-vơ. Ở trường này, theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc - đại diện Quốc tế Cộng sản, một nhóm cộng sản Việt Nam được thành lập, đồng chí Trần Phú được chỉ định làm Bí thư của nhóm. Dù vào học muộn một năm, sức khỏe yếu, nhưng với trí thông minh, ham học hỏi cùng với nghị lực mạnh mẽ, đồng chí Trần Phú đã nỗ lực phấn đấu không chỉ theo kịp các đồng chí khác, mà còn giúp đỡ cho một số anh em cùng khóa vươn lên học tập. Ngày 11/10/1929, Triều Nguyễn theo lệnh đế quốc Pháp kết án tử hình vắng mặt đồng chí Trần Phú.

Đầu năm 1930, sau khi học xong ở Trường Đại học Phương Đông, đồng chí Trần Phú đã xin tổ chức cho về nước hoạt động.

Tháng 4/1930, đồng chí Trần Phú về Hà Nội và đến tháng 7/1930 được cử vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Trần Phú đã khẩn trương tổ chức trao đổi với các đồng chí lãnh đạo Đảng trên các lĩnh vực, các vùng và nghiên cứu, khảo sát thực tế tình hình phong trào công nhân Nam Định, Hải Phòng, khu mỏ Hòn Gai, Thái Bình... Trong căn buồng xép của tầng hầm chật chội ở ngôi nhà số 90 - Thợ Nhuộm - Hà Nội, bản Luận cương chính trị của Đảng đã được đồng chí Trần Phú khởi thảo. Luận cương chính trị đã được Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10/1930) thảo luận và nhất trí tán thành. Cũng tại Hội nghị này, Trần Phú chính thức được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, khi đó đồng chí mới 26 tuổi.

Sau Hội nghị lần thứ nhất (tháng 10/1930) của Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Trung ương quyết định đóng trụ sở tại Sài Gòn để thuận lợi cho việc lãnh đạo phong trào cách mạng cũng như việc liên lạc với Hương Cảng (Trung Quốc) và Mác-xây (Pháp). Tại Sài Gòn, đồng chí Trần Phú được một đảng viên làm bồi bếp cho tên đốc học người Pháp bố trí ở ngay trong nhà để đảm bảo giữ bí mật.

Tháng 3/1931, đồng chí Trần Phú chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai. Hội nghị đã nhận định tình hình cách mạng và đề ra những chủ trương, biện pháp mới nhằm đẩy mạnh phong trào, củng cố tổ chức Đảng. Sau Hội nghị, bọn mật thám ra sức lùng sục, đánh phá hàng loạt cơ sở Đảng. Ngày 18/4/1931, đồng chí Trần Phú bị địch bắt tại Sài Gòn và bị tra tấn rất dã man, nhưng chúng đã không khuất phục được ý chí của người cộng sản kiên trung. Đồng chí tuyên bố dứt khoát “Đừng hỏi làm gì nữa vô ích. Ta không thể đem công việc của Đảng ta nói cho các ngươi nghe”. Cuối cùng kẻ thù đã bất lực trước tinh thần gang thép ấy và đưa đồng chí ra Toà án Sài Gòn để xét xử. Tại đây, đồng chí Trần Phú đã thể hiện lòng dũng cảm, trí thông minh, bản lĩnh kiên cường, biến tòa án của kẻ thù thành nơi lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp và nêu cao uy tín của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Trong những ngày bị giam cầm, tra tấn, đồng chí Trần Phú luôn nêu cao tấm gương đấu tranh cách mạng. Hàng ngày, đồng chí vẫn tham gia bồi dưỡng lý luận chính trị và kinh nghiệm công tác cho các đồng chí tù chính trị, căn dặn anh em, đồng chí luôn giữ vững tinh thần, đặt niềm tin sắt son vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Tuy sức khỏe yếu, nhưng Trần Phú vẫn tích cực cùng anh em, đồng chí tham gia đấu tranh chống lại chế độ tù đày hà khắc của thực dân. Tháng 8/1931, bệnh của Trần Phú nặng hơn, bọn mật thám phải đưa đồng chí về Nhà thương Chợ Quán. Sức khỏe của đồng chí ngày càng yếu đi, ngày 06/9/1931, đồng chí Trần Phú đã trút hơi thở cuối cùng tại Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn) khi mới 27 tuổi - độ tuổi đang tràn đầy tài năng sáng tạo, cống hiến cho cách mạng. Trước khi hy sinh, đồng chí Trần Phú đã nhắn nhủ các đồng chí của mình: Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!

Sau gần 68 năm kể từ ngày đồng chí Trần Phú hy sinh, phần mộ của đồng chí được tìm thấy tại Nghĩa trang Chợ Quán, Sài Gòn, nay là Công viên Văn hóa Lê Thị Riêng, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào lúc 09 giờ, ngày 12/01/1999, tại Hội trường Thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu, sau đó di dời hài cốt đồng chí về an táng tại đồi Hội Sơn, Cồn Nổi (Quần Nội) trước bến Tam Soa thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

    Hiện nay, quần thể Khu Di tích Tổng Bí thư Trần Phú tại xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh (bao gồm: nhà thờ, nhà trưng bày và khu mộ) trở thành địa chỉ đỏ để giáo truyền thống cán mạng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

II. NHỮNG CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA ĐỒNG CHÍ TRẦN PHÚ ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Đồng chí Trần Phú là người dự thảo bản Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần quan trọng hình thành đường lối cách  mạng Việt Nam

Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú dự thảo đã phân tích một cách khoa học tình hình thế giới, đặc điểm, tình hình cách mạng ở Đông Dương, xác định con đường cách mạng Việt Nam, các mạng Đông Dương, mối quan hệ của cách mạng nước ta với khu vực thế thế giới.

Trước hết đó là đã xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương, là tiến hành cách mạng tư sản dân quyền, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Luận cương xác định nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ thực dân, phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, sau đó “bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa quan hệ mật thiết với nhau, vì có đánh đổ chủ nghĩa đế quốc tại Việt Nam và Đông Dương mới phá được ách thống trị của địa chủ phong kiến, giành thắng lợi trong cách mạng thổ địa. Ngược lại, có phá tan được chế độ phong kiến mới đánh đổ được chủ nghĩa đế quốc.

Theo đồng chí Trần Phú, lực lượng cách mạng chính là giai cấp công nhân, nông dân và phải được đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới thành công. Để giành được quyền lãnh đạo nông dân thì giai cấp công nhân phải lãnh đạo nông dân tiến hành cách mạng ruộng đất triệt để, bởi vì vấn đề ruộng đất là nội dung cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền.

Về Đảng, Luận cương nêu rõ điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng là phải có một Đảng Cộng sản với đường lối, chủ trương đúng, có kỷ luật, liên hệ mật thiết với quần chúng và trải qua đấu tranh cách mạng mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và lãnh đạo giai cấp vô sản đấu tranh để đạt mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Để đảm bảo sự lãnh đạo, Đảng phải tổ chức ra các đoàn thể quần chúng của công nhân, nông dân… chống lại chủ nghĩa cải lương.

Về phương pháp cách mạng, Luận cương chỉ rõ phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài. Khi thời cơ cách mạng đến Đảng phải lãnh đạo quần chúng dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền.

Một vấn đề nữa là Luận cương đã đặt cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương trong mối quan hệ chặt chẽ với cục diện cách mạng thế giới, với thời đại mới.

Luận cương khẳng định cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới có liên hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp vô sản Đông Dương phải có quan hệ mật thiết với giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

Như vậy, về mặt lý luận, Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo đã trình bày một cách logic và cụ thể các vấn đề về tính chất, con đường, nhiệm vụ, tổ chức lực lượng của cách mạng Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái khác của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”.

2. Đồng chí Trần Phú với công tác xây dựng Đảng

Cùng với lý luận về con đường cách mạng Việt Nam, đồng chí Trần Phú đã có những đóng góp to lớn về công tác xây dựng Đảng trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Luận cương do đồng chí Trần Phú soạn thảo năm 1930 đã khẳng định: "Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lê-nin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".

Đồng chí đã tranh thủ mọi điều kiện để trang bị lý luận Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên, kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện ấu trĩ tả khuynh, hữu khuynh trong Đảng. Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận, chính trị của Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Bí thư Trần Phú, cùng với Thường vụ Trung ương đã ra nhiều nghị quyết, nhiều chủ trương quan trọng về công tác tuyên truyền của Đảng nhằm khắc phục "trình độ lý luận của Đảng còn thấp kém, nền tư tưởng còn chưa vững bền, nhân tài để làm việc Đảng còn rất hiếm". Nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác đó là tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong Đảng và trong quần chúng vô sản để nâng cao trình độ lý luận của đảng viên, để xây dựng nền tảng tư tưởng vô sản trong Đảng và trong quần chúng vô sản và đào tạo một lớp nhân tài vô sản cho Đảng. Đến cuối tháng 12/1930, quyết định xuất bản báo Cờ vô sảnTạp chí Cộng sản là cơ quan lý luận, phương tiện để tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên, nhân dân.

Về tư tưởng, đồng chí Trần Phú cùng Thường vụ Trung ương đã sớm nhận rõ: Một điều nguy hại căn bản là trong Đảng chưa nhận thức rõ địa vị của giai cấp trong cách mạng và chức trách của Đảng. Biểu hiện rõ nhất là trong Đảng số chi bộ và đảng viên công nhân còn ít, chưa thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, còn “giữ cái chế độ rời rạc chỉ huy, địa phương tự trị, cá nhân bao biện và độc đoán… kỷ luật Đảng thì nhiều nơi hết sức là lơi lỏng để cho tư tưởng hành động trong Đảng mỗi người một khác, trái lại có nơi thì thi hành kỷ luật nghiêm khắc một cách vô lý chỉ dùng mệnh lệnh và dọa nạt chứ không giải thích gì hết”. Đồng chí Trần Phú cho rằng những yếu kém đó đều xuất phát từ nhận thức chưa đúng về Đảng và những điều xuất phát từ “đặc tính tiểu tư sản” trong Đảng. Cùng với nhiệm vụ xây dựng năng lực lãnh đạo, Đảng phải đấu tranh chống những biểu hiện tiểu tư sản về tư tưởng, tổ chức và trong hoạt động, tức là chống lại chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa ba phải trong Đảng.

Về tổ chức, đồng chí Trần Phú đã chủ trương khôi phục lại các ban chấp hành xứ ủy, tỉnh ủy; thiết lập mối liên lạc giữa Trung ương và các cấp ủy đảng địa phương; lập ra Ban Tuyên truyền do một đồng chí Ủy viên Thường vụ Trung ương phụ trách.

Đồng chí Trần Phú xác định nhiệm vụ cần kíp trong tình hình đó là “Đảng phải thực hành cho được những nhiệm vụ về tổ chức” mà trước hết là phải tăng cường tính chất giai cấp công nhân của Đảng, nhất là trong đội ngũ lãnh đạo. Mặt khác, hoạt động của Đảng phải tập trung vào chi bộ, làm cho chi bộ phát triển, chủ động trong sinh hoạt chính trị của Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Cống hiến của đồng chí Trần Phú về công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận đó là: "Dưới sự lãnh đạo cương quyết của đồng chí Trần Phú, Đảng ta đã trở thành một đảng quần chúng thực sự và đã tiến hành những công việc lớn lao về tổ chức và lãnh đạo các tầng lớp quần chúng đông đảo trong cuộc đấu tranh cách mạng". Đến cuối năm 1930, hệ thống tổ chức đảng từ Ban Chấp hành Trung ương đến cấp xứ và phần lớn tỉnh, thành cả nước được thành lập. Ở Bắc Kỳ đã hình thành 17 tỉnh ủy, thành ủy và đặc khu ủy; ở Trung Kỳ có 9 tỉnh ủy; và ở Nam Kỳ cũng đã thành lập 21 tỉnh ủy, thành ủy, liên tỉnh ủy. Tại nhiều vùng nông thôn, nhà máy, hầm mỏ, đồn điền đã có cơ sở đảng. Số lượng đảng viên tăng nhanh; những ngày đầu mới thành lập (03/02/1930) cả nước có hơn 300 đảng viên thì đầu năm 1931 lên tới 2.400 đảng viên. Nhiều quần chúng yêu nước được giác ngộ qua đấu tranh thời kỳ cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã được kết nạp vào Đảng; ảnh hưởng và uy tín của Đảng trong phong trào quần chúng không ngừng được nâng cao. Đây là cơ sở quan trọng để ngày 11/4/1931, tại phiên họp thứ 25 Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản lần thứ XI đã quyết định: “Đảng Cộng sản Đông Dương trước đây là một chi bộ của Đảng Cộng sản Pháp, từ nay được công nhận là một chi bộ độc lập thuộc Quốc tế Cộng sản”.

3. Đồng chí Trần Phú với việc xây dựng các tổ chức cách mạng quần chúng

Về lý luận tổ chức lực lượng, đồng chí Trần Phú chỉ ra rằng: Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải xây dựng xung quanh mình các tổ chức để tập hợp quần chúng nhân dân. Khẳng định giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân thành một lực lượng thống nhất chống đế quốc và phong kiến dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản thì cách mạng khó thành công. Đây là một bước tiến trong nhận thức của Đảng về việc đánh giá vai trò của Mặt trận thống nhất dân tộc trong cách mạng nước ta.

Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930 do đồng chí Trần Phú chủ trì đã thảo luận, thông qua hàng loạt văn kiện quan trọng liên quan trực tiếp đến công tác dân vận và việc thành lập Mặt trận, trong đó có Án nghị quyết về vấn đề phản đế và Điều lệ Đồng minh phản đế ở Đông Dương. Trên cơ sở đó, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh.

Nhận thức rõ ý nghĩa của phong trào công nhân và việc xây dựng tổ chức Công hội, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (10/1930) đã ra Nghị quyết về vận động công nhân và Điều lệ Tổng Công hội. Sau khi về Sài Gòn, ngày 20/01/1931, đồng chí Trần Phú đã chủ trì Hội nghị công nhân Đông Dương lần thứ nhất bàn về công tác vận động công nhân. Hội nghị quyết định thành lập Ban Công vận Trung ương do đồng chí Trần Phú trực tiếp làm Trưởng ban.

Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai do đồng chí Trần Phú chủ trì đã chủ trương thống nhất các tổ chức thanh niên vào Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương (ngày nay là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh). Việc “Tổ chức ra cộng sản thanh niên Đoàn là một nhiệm vụ thâu phục một bộ phận quan trọng của vô sản giai cấp, là một vấn đề cần kíp của Đảng phải giải quyết”. Sau này, Trung ương Đảng đã lấy ngày mở đầu Hội nghị - ngày 26/3/1931 làm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Cùng với việc ra các nghị quyết về tổ chức quần chúng cách mạng nói trên, trong khoảng từ tháng 10/1930 đến tháng 3/1931, nhiều nghị quyết và văn kiện về xây dựng các tổ chức quần chúng cách mạng như: Nông hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cứu tế đỏ…đã được Trần Phú và Ban Chấp hành Trung ương soạn thảo, thông qua.

Từ lúc về nước hoạt động và sau đó đảm đương cương vị Tổng Bí thư tuy thời gian không lâu, nhưng đồng chí Trần Phú đã giải quyết một khối lượng công việc to lớn. Những văn kiện do đồng chí Trần Phú dự thảo hoặc chỉ đạo dự thảo, những tổ chức do đồng chí Trần Phú chủ trương lập ra đã đáp ứng được đòi hỏi của phong trào, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng công tác Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng trong những năm đầu Đảng mới thành lập.

4. Đồng chí Trần Phú là người con ưu tú của Đảng, của nhân dân, là tấm gương sáng mẫu mực về chí khí chiến đấu của người Cộng sản

Xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước, trước sự áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến, chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, sự nổi dậy đấu tranh chống áp bức, bóc lột của các tầng lớp nhân dân, Trần Phú đã sớm chọn con đường chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đồng chí Trần Phú là một tấm gương mẫu mực cho tinh thần ham học hỏi, ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, đồng chí đã tìm đọc các loại sách báo tiến bộ, tự học tiếng Anh để trau dồi kiến thức. Khi đang là thầy giáo, bằng nhiệt huyết của mình, đồng chí Trần Phú đã truyền cho các lớp học sinh tinh thần yêu nước và vận động học tập, quần chúng tham gia đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho một xã hội tốt đẹp, không còn bị áp bức, bất công… Sau khi được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được bồi dưỡng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và được kết nạp vào Cộng sản Đoàn, từ chủ nghĩa yêu nước, đồng chí Trần Phú đã đến với lý tưởng cộng sản và quyết tâm dâng hiến đời mình cho lý tưởng cao đẹp đó.

Đồng chí Trần Phú đã nêu cao tấm gương sáng ngời về lòng trung thành tuyệt đối với Đảng và cách mạng, về tinh thần bất khuất, chiến đấu kiên cường trước kẻ thù. Gần 5 tháng bị giam cầm, mặc dù kẻ địch dùng đủ mọi cực hình tra tấn, song chúng không thể khuất phục được ý chí cách mạng của đồng chí. Từ trong ngục tù của đế quốc, đồng chí Trần Phú và các chiến sỹ cách mạng vẫn tìm cách liên lạc với bên ngoài, đồng thời kiên cường đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù. Lời căn dặn “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu” của đồng chí trước lúc đi xa đã trở thành vũ khí tư tưởng sắc bén cho mỗi một người chiến sỹ cách mạng, cổ vũ lớp lớp thế hệ giữ vững lập trường, kiên định con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn.

Tinh thần cách mạng, chí khí chiến đấu và sự hy sinh anh dũng của đồng chí Trần Phú là tấm gương mẫu mực cho người cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Đồng chí đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng ta, của nhân dân ta.

Tổng Bí thư Trần Phú mất đi là một tổn thất to lớn đối với Đảng và phong trào cách mạng của nhân dân ta, đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong bài tưởng nhớ đồng chí Trần Phú năm 1932 lưu trữ tại Hồ sơ Quốc tế Cộng sản đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng, niềm tin và phẩm chất cao đẹp của Tổng Bí thư Trần Phú trong nhà tù đế quốc sẽ mãi mãi là tấm gương bất diệt cho những người cộng sản trên thế giới, đặc biệt là những người Cộng sản Đông Dương”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đã nêu cao tấm gương hy sinh oanh liệt của đồng chí Trần Phú cùng với nhiều nhà cách mạng khác “đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp, của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”.

Học tập tấm gương bản lĩnh, trí tuệ, trọn đời hiến dâng cho Đảng, vì đất nước, vì Nhân dân của đồng chí Trần Phú, toàn Đảng ta nguyện nêu cao ý chí, tinh thần cách mạng, khoa học của người cộng sản; quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội XIV của Đảng là dấu mốc quan trọng trên con đường phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, có ý nghĩa định hướng tương lai. Thời gian tới chúng ta cần tập trung tâm sức, trí tuệ xây dựng các văn kiện Đại hội với tinh thần khoa học, đổi mới, chất lượng, phản ánh đầy đủ thực tiễn mới của đất nước và xu thế phát triển của thời đại để sớm hiện thực hóa mục tiêu cao cả phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đảng uỷ xã Na Mao

Thống kê truy cập

Đang truy cập: 1

Tổng truy cập: 292934